Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có góp ý với dự thảo Thông tư ban hành biểu khung dịch vụ hoa tiêu, dịch vụ sử dụng cầu, bến, phao neo, dịch vụ bốc dỡ container và dịch vụ lai dắt tại cảng biển Việt Nam (phiên bản tháng 9) do Bộ Giao thông vận tải xây dựng.
Theo đó, về Biểu khung giá dịch vụ bốc dỡ container, VCCI cho biết, so với phiên bản tháng 8, dự thảo (phiên bản tháng 9) đã có điều chỉnh quan trọng về Biểu khung giá dịch vụ bốc dỡ container (từ Điều 14 đến Điều 16).
Cụ thể, thay vì tách khung giá dịch vụ bốc dỡ container thành hai khung giá tương ứng với mỗi loại bốc dỡ (từ Bãi cảng đến Tàu (Sà lan); từ Tàu (Sà lan) đến Sà lan, ô tô, toa xe tại cầu cảng), dự thảo (phiên bản tháng 9) đã gộp chung khung giá dịch vụ của hai loại bốc dỡ trên vào cùng một khung giá.
Theo VCCI, căn cứ để xác định khung giá bốc dỡ tại 2 loại bốc dỡ trên là khác nhau. Điều này có thể xuất phát từ tính chất của dịch vụ được cung cấp, trong đó giá bốc dỡ từ Bãi cảng đến Tàu (Sà lan) luôn cao hơn giá bốc dỡ từ Tàu (Sà lan) đến Sà lan, ô tô, toa xe tại cầu cảng, do chi phí của cảng biển bỏ ra cho hai hoạt động này là khác nhau.
Vì vậy, việc gộp khung giá của hai hoạt động này vào chung một khung dường như chưa phù hợp với tính chất cũng như chi phí mà cảng phải bỏ ra khi cung cấp dịch vụ. Hơn nữa, nguyên tắc xác định khung giá và mức giá dịch vụ tại cảng biển gần như không thay đổi giữa quy định tại Điều 3 Quyết định 3863 và Điều 4 dự thảo, vậy tại sao việc xác định khung giá dịch vụ bốc dỡ giữa quy định hiện hành và dự thảo lại có sự khác biệt như vậy?
Về gia tăng chi phí kinh doanh, việc gộp chung khung giá của hai dịch vụ sẽ khiến cho khung giá của dịch vụ bốc dỡ từ Tàu (Sà lan) đến Sà lan, ô tô, toa xe tại cầu cảng tăng lên đáng kể.
Ví dụ: Khung giá dịch vụ bốc dỡ container nội địa tại khu vực III: Quy định hiện hành, khung giá sẽ từ 474.600 đồng/container đến 678.000 đồng/container áp dụng cho loại container > 40 feet, có hàng, trong khi đó cũng loại này, theo quy định tại dự thảo sẽ có khung giá từ 658.000 đồng/container đến 940.000 đồng/container – tăng 38,6%.
Điều này sẽ tác động đến quyền lợi các doanh nghiệp là chủ hàng, chủ tàu, gia tăng chi phí kinh doanh và dường như đi ngược lại các chủ trương về hỗ trợ, giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp của Chính phủ trong thời gian qua.
Vì vậy, VCCI đề nghị ban soạn thảo đánh giá tác động một cách kỹ càng đối với việc điều chỉnh chính sách này.
Về tính minh bạch, quy định chung khung giá dịch vụ của Bãi cảng đến Tàu (Sà lan); từ Tàu (Sà lan) đến Sà lan, ô tô, toa xe tại cầu cảng như quy định tại Điều 14-16 dự thảo là chưa rõ ràng. Cụ thể, nếu doanh nghiệp đóng mức phí theo khung giá dịch vụ như trong dự thảo thì trong mọi trường hợp doanh nghiệp sẽ được đưa hàng vào bãi cảng? Nếu được hiểu theo nghĩa này thì cần phải đánh giá lại khả năng cơ sở vật chất của các cảng có thể đáp ứng được số lượng hàng được đưa về cảng hay không? Trong bối cảnh, điều kiện các cảng có diện tích hẹp, sản lượng hàng hóa về cảng lớn, nhất là vào các dịp cao điểm (Tết, các ngày lễ, …).
Mặt khác, quy định này cũng sẽ tác động lớn đến quyền lựa chọn của các doanh nghiệp khi hàng đến cảng bởi nếu như trước đây họ có thể lựa chọn việc đưa hàng vào bãi cảng hoặc đưa hàng xuống ô tô, toa xe tại cầu cảng, dựa vào mức giá cũng như tính thuận tiện của từng phương thức.
Với việc gộp chung khung giá, doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ lựa chọn đưa hàng vào bãi cảng thay vì cho hàng xuống ô tô, toa xe tại cầu cảng để vận chuyển đến kho bãi khác thuận lợi hơn. Điều này vô hình trung sẽ tác động gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi.
Báo Hải quan