Hiện cả nước có khoảng 4.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics nhưng chủ yếu ở quy mô nhỏ, tới 90% doanh nghiệp khi đăng ký có vốn dưới 10 tỷ đồng.
Bộ Công Thương vừa có Báo cáo số 94/BC-BCT ban hành ngày 30/7/2019 về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển logistics Việt Nam cho biết cả nước có 4.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nhưng phần lớn là quy mô nhỏ, chất lượng nguồn nhân lực yếu. Đây là báo cáo đầu tiên của Bộ Công Thương về các doanh nghiệp này.
90% doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng
Các doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu ở quy mô nhỏ, tới 90% doanh nghiệp khi đăng ký có vốn dưới 10 tỷ đồng (thấp hơn mức vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp cả nước), 1% có mức vốn trên 100 tỷ đồng, 1% có mức vốn từ 50 đến 100 tỷ đồng, 3% có mức vốn từ 20 đến 50 tỷ đồng, và 5% có mức vốn từ 10 đến 20 tỷ đồng. Có tới 2.000 doanh nghiệp logistics là công ty TNHH một thành viên cũng cho thấy quy mô nhỏ bé.
Với 4.000 doanh nghiệp, nhưng chỉ có gần 400 doanh nghiệp tham gia Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA). Theo thống kê của VLA, những doanh nghiệp hội viên đại diện trên 60% thị phần cả nước, bao gồm nhiều doanh nghiệp hàng đầu trong ngành. Các doanh nghiệp logistics hàng đầu hiện nay là SNP, Gemadept, Transimex, IndoTrans, TBS Logistics, Tân Cảng Sài Gòn, Delta, U&I Logistics, Sotrans, Minh Phương Logistics… đều là hội viên của VLA, cung cấp dịch vụ tới tất cả các thị trường chiến lược của Việt Nam.
Vẫn theo báo cáo, nhân lực logistics vẫn đang là khâu thiếu và yếu, nhất là về ngoại ngữ, năng lực quản lý khi từ năm 2015- 2030, cả nước cần tới 200.000 nhân sự. Hiện nay, các Bộ đang đào tạo nhân sự logistics ở 3 cấp độ Đại học, Cao đẳng và Trung cấp nhưng chủ yếu là Cao đẳng và Trung cấp với quy mô hàng năm từ 3.500- 5.000 học viên và khoảng 10.000- 15.000 lượt người ở các trình độ sơ cấp và đào tạo ngắn hạn dưới 1 tháng.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong logistics của doanh nghiệp còn rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung phục vụ khai báo hải quan và theo dõi, giám sát phương tiện. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, Trung tâm logistics đang nỗ lực để đổi mới hoạt động. Ngoài các chức năng chính gồm bảo quản, dán nhãn, đóng gói, chia tách, xử lý hàng hóa, chuẩn bị đơn đặt hàng, các trung tâm logistics đang chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hàng hóa, theo dõi, truy xuất vị trí.
Một số trung tâm logistics chuyên dùng được tự động hóa gần như hoàn toàn như các trung tâm logistics của Samsung, Unilever, P&G, Vinamilk, Masan. Các trung tâm logistics lớn hiện nay tập trung ở khu vực Hải Phòng, Đồng Nai và Bình Dương, áp dụng hệ thông quản lý hiện đại thuộc các doanh nghiệp Gemadept, TBS, Tân Cảng Sài Gòn, Transimex, Mapletree, Damco, DHL, Kerry Express, Viettel Post.
Kết nối hạn chế khiến chi phí bị tăng cao
Một điểm đáng lưu ý, cả nước có 45 Trung tâm logistics tại 9 tỉnh, thành phố nhưng đa phần là các Trung tâm logistics hạng II (cấp vùng), chưa phát triển đúng định hướng tại Quyết định số 1012/QĐ-TTg ban hành năm 2015 là phát triển các Trung tâm cấp I (cấp quốc gia) để trên cơ sở đó phát triển các Trung tâm hạng II.
Kết nối giữa các phương thức vận tải đang là hạn chế lớn, làm chi phí logistics còn cao. Kết nối giữa các phương thức vận tải được thể hiện rõ trên các hành lang vận tải chính, trọng tâm là vấn đề kết nối đường sắt, đường thuỷ nội địa với cảng biển, với các trung tâm đô thị, các trung tâm sản xuất – tiếu thụ hàng hoá chính. Hệ thống đường bộ có nhiều cải tiến, tuy nhiên số lượng phương tiện chạy rỗng còn nhiều làm giảm hiệu suất khai thác, tăng chi phí.
Theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, báo cáo của Bộ Công Thương đã góp phần giúp Chính phủ nhận định tổng quan lĩnh vực logistics tại Việt Nam hiện nay. Đây là những dữ liệu quan trọng để phát triển ngành này, góp phần thúc đẩy tạo thuận lợi thương mại ở trong nước cũng như xuất khẩu hàng hoá.
Báo cáo dẫn số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho thấy, cùng với tốc độ tăng trưởng của GDP, giá trị sản xuât công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu, trị giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ và hạ tầng giao thông, trong thời gian vừa qua, dịch vụ logistics của Viêt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao đạt 12-14%, tỷ lệ doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ logistics đạt khoảng 60-70%, đóng góp khoảng 4-5% GDP.
Còn theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2018, thông tin chỉ số năng lực hoạt động logistics (LPI) của Việt Nam xếp hạng 39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25 bậc so với năm 2016 và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước ASEAN. Việt Nam cũng là nước xếp hạng ở nhóm đầu trong các thị trường mới nổi. Đây là kết quả tốt nhất của Việt Nam kể từ khi Ngân hàng Thế giới thực hiện việc xếp hạng LPI kể từ năm 2007 đến nay.
Báo Diễn đàn doanh nghiệp