Thời gian qua, nhiều cảng biển của Việt Nam liên tục lọt top trong các bảng xếp hạng cảng biển uy tín của thế giới.
Cảng biển liên tục lọt top
Ngân hàng Thế giới World Bank và Hãng tin Tài chính S&P Global Market Intelligence vừa công bố Chỉ số CPPI (Container Port Performance Index – chỉ số hoạt động cảng container) cho 348 cảng container toàn cầu, bao gồm cảng Hub port trung tâm trung chuyển quốc tế và cảng cửa ngõ xuất nhập khẩu quốc gia.
Cụm cảng Cái Mép – Thị Vải lọt vào nhiều bảng xếp hạng quốc tế về hiệu suất hoạt động và tốc độ tăng trưởng
Đây là chỉ số được tính trên các yếu tố liên quan tới thời gian tàu vào luồng, cập cảng, năng suất bốc và dỡ hàng lên xuống cảng cùng tổng lượng hàng/chuyến, tàu rời cảng ra luồng. Hai yếu tố khác cũng được tính toán là yếu tố tàu lớn (tiết kiệm nhiên liệu hơn) và yếu tố công nghệ thông tin, số hoá.
Đáng chú ý, cảng Cái Mép của Việt Nam giữ vị trí thứ 12, cao hơn một số cảng biển lớn như Singapore (vị trí thứ 18), Yokohama – Nhật Bản (vị trí thứ 15), Busan – Hàn Quốc (thứ 22). Cụm cảng Cái Mép cũng được xếp vào nhóm cảng biển lớn với sản lượng hàng container thông qua đạt hơn 4 triệu Teu/năm.
Đặc biệt, Cái Mép vẫn tiếp tục duy trì vị trí thứ 13 (theo cách tính kỹ thuật, cho trọng số cao hơn cho kích cỡ tàu phổ biến ở cảng đó).
Bảng xếp hạng này dựa trên các tiêu chí liên quan tới thời gian tàu container cần để hoàn thành việc bốc và dỡ container tại một cảng trong toàn bộ thời gian suốt năm 2022.
Không riêng Cái Mép, thời gian qua, một số cảng biển của Việt Nam cũng lọt top nhiều cảng xếp hạng cảng biển của thế giới ở những tiêu chí khác nhau. Trong đó, trong bảng xếp hạng 100 cảng container năm 2022 có lưu lượng hàng hóa qua cảng lớn nhất thế giới do Tạp chí hàng hải Lloyd’s List (Vương quốc Anh) đưa ra, 3 cảng Hải Phòng, TP.HCM và Cái Mép cũng lọt top.
Bảng xếp hạng này căn cứ trên số lượng hàng qua cảng và tốc độ tăng trưởng của các cảng biển. Trong đó, cảng biển Hải Phòng có sản lượng hàng năm 2021 đạt 5,69 triệu Teus, tăng gấp đôi so với năm 2012. Cảng biển TP.HCM có sản lượng thông qua là 7,9 triệu Teus trong năm 2021 và tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 1,3% so với năm 2020. Cảng biển Cái Mép có lượng hàng thông qua đạt 5,38 triệu Teus năm 2021, được đánh giá là điểm sáng tại khu vực Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng sau đại dịch khoảng 22%.
Mỗi bảng xếp hạng được đưa ra dựa trên những tiêu chí riêng. Tuy nhiên, việc các cảng biển của Việt Nam liên tục lọt top trong các bảng xếp hạng thế giới cho thấy, cảng biển Việt Nam ngày càng hoàn thiện và đạt được những tốc độ tăng trưởng ấn tượng.
Theo Cục Hàng hải VN, mức tăng trưởng bình quân hàng thông qua cảng biển cả nước trong giai đoạn 2017 – 2021 đạt 8,4%. Hệ thống cảng biển của Việt Nam cũng đạt được những thành tựu nhất định khi tạo nên mạng lưới cảng biển trên toàn quốc với các cảng biển có chức năng khác nhau, bao gồm: cảng biển tổng hợp quốc gia, cảng địa phương, khu vực, cảng cửa ngõ cho các vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, Trung và miền Nam.
Đến nay, cả nước có 296 bến cảng với chiều dài khoảng 103 km cầu cảng, cũng như đã hình thành các cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam.
“Hệ thống cảng biển đã cơ bản đảm bảo thông qua lượng hàng xuất nhập khẩu và giao lưu giữa các vùng miền trong nước bằng đường biển, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”, Cục Hàng hải VN đánh giá.
Riêng về nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn ngân sách tập trung đầu tư cho các hạng mục kết cấu hạ tầng công cộng (luồng tàu, đê chắn sóng dùng chung) kết nối với cảng biển quan trọng. Các hạng mục kết cấu hạ tầng bến cảng chủ yếu được đầu tư bằng nguồn huy động hợp pháp của doanh nghiệp
Đầu tư lớn cho hạ tầng
Thời gian qua, nhiều cảng biển đã được đầu tư mới, trang thiết bị hiện đại, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác cảng
Trong Chương trình hành động của Bộ GTVT thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 50/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, một trong những mục tiêu đặt ra là ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng trọng điểm về giao thông đường biển.
Thời gian qua, lĩnh vực này được quan tâm đầu tư để nâng tầm các cảng biển Việt Nam. Hệ thống các cảng biển đã được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp. Theo Cục Hàng hải VN, ngành giao thông đã toàn thành đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép – Thị Vải, Lạch Huyện có khả năng tiếp nhận được tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 tấn (DWT) đi thẳng tới bờ tây nước Mỹ, Canada và châu Âu.
Cùng đó, hoàn thành đầu tư các cảng hành khách tại Phú Quốc, Hạ Long có khả năng tiếp nhận tàu chở khách lớn nhất thế giới, cũng như thực hiện nâng cấp, cải tạo các cảng đầu mối khu vực Nghi Sơn, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Khánh Hòa, Cần Thơ, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn (năm 2011) lên khoảng 580 triệu tấn mỗi năm.
Trong đó, nhiều cảng biển có khả năng tiếp nhận các tàu có trọng tải lớn, phù hợp với xu hướng của thế giới. Nhờ đó, hàng hóa xuất nhập khẩu có thể đi thẳng tới các quốc gia Châu Âu, Châu Mỹ, giảm được chi phí vận tải đồng thời góp phần thúc đẩy dịch vụ logistics của Việt Nam phát triển.
Đơn cử, các cảng biển tại khu vực Cái Mép như cảng Gemalink đã đón được tàu OOCL Spain hơn 230.000 DWT. Cảng CMIT cũng đón được những chuyến tàu có trọng tải hơn 200.000 DWT cập cảng. Trong khi tại khu vực miền Bắc, cảng Lạch Huyện cũng đã đón được tàu có trọng tải gần 145.000 DWT.
Tổng thư ký Hiệp hội cảng biển Việt Nam Hồ Kim Lân nhận định mấy năm qua, kết nối hạ tầng của ngành giao thông đã có nhiều điểm mới. Việc phát triển kế nối hạ tầng khu vực phía Nam và khu vực ĐBSCL, góp phần tạo sự phát triển kinh tế nói chung và đóng góp phần nào cho ngành hàng hải trong việc xuất khẩu hàng hóa.
Trong khi đó, ông Phan Hoàng Vũ, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH liên doanh dịch vụ container quốc tế cảng Sài Gòn – SSA (SSIT) cho rằng, những kết quả đã đạt được của cảng biển Việt Nam chứng tỏ các quy hoạch, kế hoạch đầu tư, phát triển của các cơ quan chuyên ngành thời gian qua đã bắt đầu có hiệu quả.
Với việc huy động nguồn vốn doanh nghiệp để xây dựng hệ thống cảng biển, tới nay, nhiều cảng biển đã được đầu tư mới, trang thiết bị hiện đại, phát triển công nghệ thông tin với các hệ thống phần mềm quản lý… đóng góp vào việc tăng hiệu suất khai thác cảng, giúp các cảng có được những bước tăng trưởng, đóng góp cho sự phát triển của ngành cảng biển.
“Ngay cảng SSIT hiện nay, năng suất cẩu đạt khoảng 37 container/giờ. Đây là con số đáng kể trong ngành cảng trong khu vực và thế giới”, ông Vũ dẫn chứng và khẳng định để cảng biển có được những thành tích tốt, cũng phải kể đến sự đóng góp của nhiều đơn vị trong và ngoài ngành, từ các chủ hàng, danh nghiệp cảng, hãng tàu, hải quan, cơ quan quản lý…
Đáng chú ý, ông Vũ nhấn mạnh thời gian tới, cảng biển Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng tăng trưởng, đặc biệt từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc. Để đáp ứng điều này, đòi hỏi ngành cảng biển cần được quy hoạch, phát triển và đầu tư một cách hợp lý, bài bản.