Cục hàng hải Việt Nam: Chiến lược phát triển ngành Hàng hải đến năm 2030

23/12/19 8:45 AM

Thế kỷ XXI được xem là kỷ nguyên của đại dương, việc “vươn ra biển” đã trở thành xu thế lớn, định hướng quan trọng của các quốc gia có biển và cả quốc gia không có biển. Trong tương lai, kinh tế biển sẽ là một ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân.

Tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Với các mục tiêu cụ thể: “Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới”.

Theo đó, vai trò của kinh tế biển, trong đó có kinh tế hàng hải ngày càng trở nên quan trọng và được xác định là lĩnh vực mũi nhọn cần ưu tiên phát triển. Nhiều năm qua, Cục Hàng hải Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, bắt kịp xu hướng phát triển thế giới. Trong giai đoạn phát triển mới, Cục Hàng hải Việt Nam đã xây dựng cho mình những phương hướng, nhiệm vụ giải pháp chiến lược phát triển trong lĩnh vực hàng hải và logistics giai đoạn (2021 – 2030), tầm nhìn đến năm 2045 và cụ thể là Kế hoạch 5 năm (2021 – 2025).

Thời kỳ chiến lược (2021 – 2030), tầm nhìn đến năm 2045

Đội tàu vận tải biển

Căn cứ Quyết định số 1481/QĐ-BGTVT ngày 27/4/2015 của Bộ Giao thông vận tải về phê duyệt đề án tái cơ cấu vận tải biển Việt Nam đến năm 2020, Quyết định số 744/QĐ-BGTVT ngày 21/3/2017 của Bộ Giao thông vận tải về Đề án Tái cơ cấu lĩnh vực vận tải giai đoạn 2016 – 2020, Cục Hàng hải Việt Nam đã ban hành Quyết định số 490/ QĐ-CHHVN ngày 15/6/2015 về Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Tái cơ cấu vận tải biển đến năm 2020” và nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 1481/QĐ-BGTVT ngày 27/4/2015 và phân công nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc, đến nay, hầu hết các nhiệm vụ đã được triển khai thực hiện. Cụ thể:

Phát triển đội tàu biển Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả; chú trọng phát triển các loại tàu chuyên dụng có trọng tải lớn. Đến năm 2020, tổng trọng tải đội tàu đạt khoảng từ 6,8 đến 7,5 triệu DWT; Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu vận tải biển theo hướng chủ yếu đảm nhận vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu, tuyến quốc tế, các tuyến ven biển, nhất là vận tải Bắc – Nam, vận tải than nhập khẩu phục vụ các nhà máy nhiệt điện, vận chuyển dầu thô phục vụ các nhà máy lọc dầu, ga, khí hóa lỏng, xi măng.

Nâng cao thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu lên 25% – 30%. Phát triển tuyến vận tải hành khách ven biển, hải đảo. Đến năm 2020, thị phần vận tải hàng hóa là 21,25%, vận tải hành khách là 0,07% so với khối lượng vận tải toàn ngành giao thông vận tải. Đồng thời, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước, đổi mới thể chế chính sách tạo khung pháp lý minh bạch, thông thoáng, cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện, tháo gỡ các khó khăn, rào cản, tạo động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển đội tàu biển.

Hệ thống cảng biển

Tính đến thời điểm hiện nay, hầu hết những mục tiêu phát triển ngành Hàng hải trong chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020 đã cơ bản được triển khai và hoàn thành. Cụ thể, dự án đầu tư xây dựng cảng cửa ngõ Lạch Huyện (Giai đoạn khởi động) đã hoàn thành và đưa vào khai thác trong năm 2018 với quy mô tiếp nhận tàu 80-100ngàntấn;BếncảngCáiMép-ThịVảiđãđầu tư hiện đại để tiếp nhận các tàu container lớn nhất hiện nay, góp phần đưa cảng biển Việt Nam trở thành mắt xích trong chuỗi hàng hải toàn cầu. Các cảng biển trên cả nước trong giai đoạn 2011 – 2018 đã được đầu tư, cải tạo nâng cấp, hầu hết những cảng biển tổng hợp loại 1 của quốc gia có thể tiếp nhận tàu trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Một số dự án cảng hành khách quốc tế chuyên dùng đầu tiên cũng đã được triển khai đầu tư tại Quảng Ninh, Phú Quốc – Kiên Giang; Các bến cảng chuyên dùng phục vụ cho các trung tâm công nghiệp lớn trên cả nước như: Nghi Sơn, Vũng Áng, Dung Quất, Vĩnh Tân… đã đưa vào vận hành tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế ven biển và thu hút đầu tư. Luồng cho tàu biển lớn vào sông Hậu đã hoàn thành đáp ứng quy mô cho tàu trọng tải từ 10 – 20 ngàn tấn.

Phát triển hệ thống cảng biển theo một quy hoạch tổng thể và thống nhất trên quy mô cả nước nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để nhanh chóng đưa nước ta hội nhập và đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực và trên thế giới, khẳng định vị trí và ưu thế về kinh tế biển, đồng thời góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Hình thành những đầu mối giao lưu kinh tế quan trọng với quốc tế làm động lực phát triển các khu kinh tế, đô thị – công nghiệp ven biển.

Dịch vụ logistics

Phát triển đồng bộ dịch vụ hỗ trợ vận tải, vận tải đa phương thức, đặc biệt nâng cao chất lượng dịch vụ logistics để giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông, phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ đem lại giá trị gia tăng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, với mục tiêu phát triển dịch vụ logistics: đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8% – 10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15% – 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% – 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% – 20% GDP, xếp hạng theo Chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên

Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các giải pháp để giảm chi phí logistics, tăng cường kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông, phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ đem lại giá trị gia tăng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế.

Kế hoạch 5 năm (2021 – 2025)

Đội tàu vận tải biển

Phát triển dịch vụ vận tải biển đồng bộ với hệ thống cảng biển, tập trung khai thác hiệu quả các tuyến vận tải biển nội địa nhằm giảm tải cho đường bộ; góp phần giảm chi phí, nâng cao sản lượng vận tải. Phát huy tối đa lợi thế về vị trí của các cảng biển, đặc biệt là cảng cửa ngõ quốc tế để thu hút các tàu trọng tải lớn vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu đi các tuyến vận tải biển xa; tăng cường hợp tác với các cơ quan quản lý cảng biển, hãng tàu biển nước ngoài để thu hút nguồn hàng thông qua cảng biển Việt Nam;

Nghiên cứu, hình thành phát triển các kết nối cảng biển, hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau cảng biển với đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa như: Nghiên cứu đầu tư khu bến cảng Liên Chiểu, Đà Nẵng phù hợp với nhu cầu vận tải và khả năng về nguồn vốn; Thực hiện các giải pháp thu hút, phân luồng hàng hóa để khai thác có hiệu quả khu bến cảng Cái Mép – Thị Vải; nghiên cứu triển khaidựánđầutưluồngCáiMép-ThịVảiđể các tàu trọng tải đến 160.000 tấn hành hải 24/24 vào khu bến cảng Cái Mép – Thị Vải (đặc biệt là đoạn luồng từ phao số “0” đến bến cảng CMIT); đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án đầu tư xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện) – Giai đoạn khởi động.

Hệ thống cảng biển

Bảo đảm thông qua toàn bộ lượng hàng xuất nhập khẩu và giao lưu giữa các vùng, miền trong nước bằng đường biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước với năng lực theo quy hoạch của hệ thống cảng biển tại các thời điểm quy hoạch như sau:

Tập trung xây dựng cảng cửa ngõ quốc tế tại Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (khi có điều kiện) tiếp nhận được tàu trọng tải đến 100.000 tấn (tàu container 8.000 TEUs) hoặc lớn hơn, đủ năng lực để có thể kết hợp vai trò trung chuyển container quốc tế; các cảng chuyên dùng quy mô lớn cho các liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện sử dụng than.

Cải tạo, nâng cấp các cảng đầu mối hiện có; xây dựng có trọng điểm một số cảng địa phương theo chức năng, quy mô phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và khả năng huy động vốn.

Phát triển cảng tại các huyện đảo với quy mô phù hợp để tiếp nhận hàng hóa, hành khách phục vụ phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kỹ thuật – công nghệ, yếu kém về chất lượng phục vụ, tăng khả năng cạnh tranh trong hội nhập quốc tế về cảng biển.

Nghiên cứu kết hợp chính trị với nạo vét để cải tạo, nâng cấp luồng tàu vào cảng, đảm bảo cho tàu lớn vào, rời cảng thuận lợi, an toàn, đồng bộ với quy mô cầu bến và phù hợp với chức năng, vai trò của cảng.

Dịch vụ logistics

Tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới và khu vực. Thông qua các hoạt động nhằm nâng cao năng lực doanh nghiệp, khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp trong một số ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.

Tập trung kêu gọi đầu tư xây dựng các trung tâm logistics loại I tại khu vực Hà Nội, TP. HCM, đóng vai trò kết nối Việt Nam với quốc tế (từ nay đến năm 2021); các trung tâm logistics loại II tại khu vực Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cần Thơ nhằm kết nối các khu vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam (đến năm 2023); Vận động thu hút đầu tư xây dựng trung tâm logistics để thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam với thị trường toàn cầu nhằm hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế.

VLR.VN